Đầu xuân năm 1970, đó là lúc gió lạnh vẫn thổi, nước chảy xuống từ tảng đá của khe núi đóng băng làm tảng đá trở nên trắng xóa. Vì R nhận biết ĐC yêu thương R nên dù có vất vả gì R cũng tuyệt đối không thể rời xa ĐC. Dù thế thì cũng không phải là R nhìn thấy ĐC ở bên cạnh R mỗi ngày. Khi R cầu nguyện lúc ban đầu thì thỉnh thoảng ĐC cho R thấy một lần và rời đi sau khi dạy cho R là hãy làm như thế nào đó, rồi sau đó lâu lắm ĐC mới lại xuất hiện. Hơn nữa, nếu R cầu nguyện thì ĐC làm cho R nhận biết chứ không phải cho nhìn thấy nên R đã nghe Lời Chúa của ĐC bằng tấm lòng.
Thời điểm đó, R nhận biết được bí mật của Sự sáng tạo. Trong thời gian qua R đọc Sáng thế chương 2 từ câu 8 đến câu 17 và không giải thích được câu hỏi liên quan đến cây sự sống và trái biết thiện ác, R đã cầu nguyện và đấu tranh từ trước đó rất lâu để biết điều này. R thắc mắc ‘Cây sự sống và trái biết thiện ác! Rốt cuộc là đang nói đến cái gì đây? Ngày nay không có cây đó và trái đó sao?’ R đọc kỹ hết mấy trăm chỗ trong KT và cầu nguyện hỏi ĐCT, ĐC, và ĐTL. Đó là lúc R bị thu hút bởi lòng tò mò về trái biết thiện ác và là năm thứ 18 R cầu nguyện.
Nếu R có đức tin theo kiểu những mục sư thông thường hay nói “Em phải tin vô điều kiện chứ, em muốn biết cái gì rồi mới tin được?” thì chắc R đã không thể nhận biết được chân lý này rồi. Có thể tìm thấy trong KT là cây sự sống và trái biết thiện ác thì quan trọng bao nhiêu. Nếu xem Sáng thế thì thấy rằng sau khi ĐCT sáng tạo ra trời đất và sáng tạo ra con người, ĐCT đã làm ra cây sự sống và cây biết thiện ác ở giữa vườn Ê-đen. Và có nội dung ĐCT đã nhấn mạnh điều đó rất quan trọng và bảo rằng ngay cả con người mà Ngài đã sáng tạo thì tuyệt đối cũng đừng hái ăn ít nhất là cái đó. R thật sự thắc mắc là ‘Tại sao, đó là cái gì mà ĐCT đã làm cho ngay cả con người mà ĐCT đã sáng tạo ra quý giá nhất, cũng không được ăn?’
Chúa Giê-su đánh giá về ‘sự sống’ là ‘không thể đánh đổi được dù có cho cả trời đất,’ nhưng ĐCT nói là nếu hái ăn trái đó thì sẽ mất sự sống nên R thắc mắc là trái cây đó quý hơn con người hay sao. R cũng đã suy nghĩ rất sâu sắc là ‘Trên thế gian có trái cây quý hơn con người hay sao? Liệu có đúng với nguyên tắc hay không?’ R nghi ngờ là ‘Liệu ĐCT có xem trái biết thiện ác quý hơn con người không?’, R đã cầu nguyện với ĐCT và hỏi tại sao ĐCT xem quý trái biết thiện ác. Không biết đó có phải là lời không nên nói ra dù chỉ nửa câu hay không mà đã không có câu trả lời.
‘Nếu những người ĐCT đã sáng tạo một cách quý giá hái ăn trái cây rồi sẽ chết, thế thì tại sao ĐCT làm ra trái cây đó?’ Dù R có suy nghĩ bao nhiêu thì đó cũng là việc thật sự không hợp với lý lẽ. Vì họ hái ăn trái cây và sa ngã nên cả nhân loại bị Thiên Đàng ghét bỏ và để lại lớp con cháu hậu thế phải chịu sự nguyền rủa, không có người nào không suy nghĩ thắc mắc nếu biết nội dung KT về trái biết thiện ác này. Nếu là người thật sự tin KT thì chắc sẽ nói tất cả đều là việc huyền bí.
Ở Sáng thế chương 3 câu 16 có đoạn nói, sau khi hái ăn trái biết thiện ác, Ê-va mang thai và chịu đau khổ. R thắc mắc là ‘Sau khi hái ăn trái biết thiện ác thì phải chịu nỗi khổ mang thai? Ăn trái cây gì của thế gian mà lại có thể mang thai? Bằng thường thức mà những người hiện đại của thế gian đang biết, thì không có trái cây nào ăn vào sẽ mang thai. Vì thế, nếu xem từ vựng ‘mang thai’ thì rõ ràng đó đúng là từ vựng về giới tính. R nghĩ ‘Nếu vậy thì rõ ràng đó là từ ngữ của ngụ ngôn!’ R suy nghĩ sâu sắc từ Sáng thế chương 2 câu 8 trở xuống và trong lúc cầu nguyện trong khoảng thời gian dài thì cuối cùng R đã nhận biết.
Khi đọc Sáng thế chương 2 câu 8 trở xuống thì thấy có cây sự sống và trái biết thiện ác, có câu chuyện của A-đam và Ê-va, tức là câu chuyện của người nam và người nữ. Trước tiên R nhận biết là ĐCT đã ngụ ngôn con người là cây, “Là cái này! Thì ra cây sự sống là ngụ ngôn chỉ A-đam.” Khi nam nữ làm hành vi giới tính thì gọi là mang thai ở chương 3 câu 16, nên R nhận biết câu ‘Nếu ăn thì chết’ ở chương 2 câu 17 được biểu hiện là chết khi nhìn về mặt linh hồn nếu không giữ luật của giới tính mà ĐCT đã định ra đối với những người Ngài đã sáng tạo!’ R hét lớn trong hang là cái này không thể sai được.
Trong gia đình cũng vậy, bố mẹ luôn đối xử nghiêm khắc với quan hệ giới tính của con cái còn nhỏ. ĐCT cũng giống như thế, linh cảm và cảm động này chạm mạnh vào R. ‘À! Trái biết thiện ác là nói đến Ê-va, cây sự sống là nam mà chính là A-đam!’ R đã nhận biết cây sự sống và trái biết thiện ác là từ ngữ mang tính thường thức như thế.
Ở 1 Cô-rinh-tô chương 15 câu 45 có nói là A-đam thứ nhất là linh hồn sống, A-đam sau cùng là linh hồn cứu sự sống. Tức là gọi Chúa Giê-su là A-đam sau. Hơn nữa, nếu xem Khải huyền chương 22 câu 14 thì có đề cập đến cây sự sống, ở thần học thì nói cây sự sống ở đây là Chúa Giê-su. Họ đã chỉ đích danh Chúa Giê-su và ngụ ngôn Chúa Giê-su là cây sự sống.
Chính vì thế, đúng là nói A-đam ở vườn Ê-đen, hay chính là A-đam trước, là cây sự sống, và nói Ê-va bên là trái biết thiện ác trước A-đam, hay chính trái cây phân biệt thiện ác, đó là Lời Chúa chắc chắn mà không ở đâu có. Ngoài ra, R nhận biết KT biểu hiện một chi thể của người nữ là trái cấm, gọi là trái biết thiện ác. Ở Nhã ca trong KT, Sa-lô-môn đã ngụ ngôn chi thể của phụ nữ bằng nhiều cái khác nhau. Ông đã ngụ ngôn gương mặt như mặt trăng (Nhã ca 6:10), cổ như vọng gác (Nhã ca 7:4), ngực như cặp nai tơ (Nhã ca 4:5), chân như cột đình (Nhã ca 5:15), chiều cao như thân cây (Nhã ca 7:7), rốn như cái chén đựng rượu nho (Nhã ca 7:2), eo như lúa mì cột chặt (Nhã ca 7:2), mắt như hồ nước (Nhã ca 7:4), môi như sợi chỉ đỏ (Nhã ca 4:3), má như quả lựu (Nhã ca 4:3). Vì thế, việc ngụ ngôn chi thể của người nữ là trái cây ở Sáng thế là hợp lý.