Từ lúc ở độ tuổi 10, R đã phải bước vào con đường lang thang và sống vắt óc ra vì va chạm với các vấn đề cuộc sống. Đau khổ R nếm trải trong đầu không phải là thứ mà ai đó ở bên cạnh chữa trị cho thì sẽ chữa trị được. R sống sinh hoạt đức tin nhưng vì nó khác với hiện thực cuộc sống của R nên R luôn không tránh được sự khốn khổ. R bắt đầu nhận biết giới hạn của tấm lòng, than thở và than vãn về sự thiếu hiểu biết của mình. Khi đức tin càng trở nên sâu sắc thì càng lúc R càng khó khăn hơn. Sự khổ sở về mặt tinh thần đó là nỗi đau nhức đến tận xương tủy, là nỗi đau đớn như cắt vào xương.
Thứ nhất, đó là nỗi đau của cái nghèo vì sống ở xóm núi nghèo, đau khổ đến từ sự phân biệt giàu nghèo.
Thứ hai, đó là nỗi đau không được học.
Thứ ba, đó là nỗi đau của hoàn cảnh khi sống ở vùng núi hẻo lánh, hiu quạnh, cô độc. Nơi R lớn lên là hẻm núi không có chút hy vọng, ước vọng gì cả.
Thứ tư, đó là sự mặc cảm vì mình xấu xí.
Thứ năm, bức tường ngôn ngữ là sự đau khổ lớn đối với R vì R là người nói lắp. Ngay lúc đó R có thể suy nghĩ ra nhưng R lại không diễn đạt tốt được vì R là người bị dị tật ngôn ngữ.
Thứ sáu, cảm giác bị xa lánh mà R gánh chịu mỗi lần bị bố mẹ, anh em trong gia đình xem thường, thì không có từ ngữ nào diễn tả được. Họ nói là “Em thì biết cái gì!” và xem thường R. Hơn nữa, R cũng bị xem thường về hình dáng nghèo nàn xơ xác từ những người dân làng. Đối với những tiền bối của đức tin đã học thần học, R bị xem là kẻ điên, mỗi lần họ đối xử với R, họ đều nhìn R rất khinh miệt. Việc họ nói R bị điên dần trở nên quen thuộc. Nỗi đau khổ tinh thần vì điều này đối với R rất lớn.
Thứ bảy, đó là sự trăn trở về con đường tương lai của cuộc sống.